Ấn giáo Tì-thấp-nô
Hình thành và phát triển
editVào khoảng thế kỉ thứ 6, 7, Tì-thấp-nô giáo lại đạt được một vị trí quan trọng vì đã hấp thụ phần lớn của một trào lưu thờ tự thần mặt trời. Hai trường sử thi Ấn Độ, Rāmāyaṇa, miêu tả cuộc đời của vị anh hùng Rāma, hiện thân của thần Tì-thấp-nô, và Mahābhārata, bao gồm toàn bộ Chí Tôn ca, đã giúp phổ biến Tì-thấp-nô giáo đến những nước Đông Nam Á.
Trường phái
editHai nhóm quan trọng nhất của Tì-thấp-nô giáo là Ngũ Dạ (sa. pañcarātrin) và Bạc-già-phạm (sa. bhāgavata). Nhóm Bạc-già-phạm tuân thủ giáo lý của Bà-la-môn giáo trước đây trong khi nhóm Ngũ Dạ được xem là phi chính thống.
Từ thời vương triều Cấp-đa (tk. 5) thì ranh giới giữa hai nhóm này đã mờ dần. Những nhóm quan trọng xuất hiện sau và tồn tại đến ngày nay là nhóm Śrīsaṃpradāya, có nguồn từ giáo lý Chế hạn bất nhị (sa. viśiṣṭādvaita) của La-ma-nã-già (sa. rāmānuja, 1055-1137) và được phân thành nhiều nhánh nhỏ khác nhau; nhóm Brahmasaṃpradāya với học thuyết Nhị nguyên (sa. dvaitavāda) của Madhva (~1238-1317); nhóm Rudrasaṃpradāya theo giáo lý Bất nhị nhất nguyên thuần tuý (sa. śuddhādvaita) của Viṣṇusvāmin với hai nhánh được lập bởi Vallabha và Caitanya; và nhóm Sanakādisaṃpradāya, được Nimbārka sáng lập, theo giáo lý Nhị nguyên kiêm bất nhị (sa. dvaitādvaita). Ngày nay, Tì-thấp-nô giáo được xem là một trong hai trào lưu tôn giáo Ấn Độ quan trọng nhất song song với Thấp-bà giáo.
Tì-thấp-nô giáo (viṣṇuism, vaiṣṇavism) là một tôn giáo nhất thần ; chỉ thờ một thần duy nhất . Với cơ sở xuất phát từ sự đồng hoá vị thần Tì-thấp-nô (sa. viṣṇu) trong tôn giáo Phệ-đà và vị thần siêu việt Na-la-diên-na (zh. 那羅延那, sa. nārāyaṇa), cũng như từ sự hoà nhập của một số lễ nghi phổ biến, đặc biệt là việc tôn xưng Hắc Thần (sa. kṛṣṇa)
Ở Bắc Ấn Độ giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 2 TCN. Tì-thấp-nô Na-la-diên-na (sa. viṣṇu-nārāyaṇa) được tôn xưng là Bạc-già-phạm (sa. 薄伽梵, sa. bhagavat) - nghĩa là Thế Tôn - và các tín đồ được gọi là Bạc-già-phạm đồ (sa. bhāgavata). Nên lưu ý là cách gọi Tì-thấp-nô giáo hoặc Tín đồ Tì-thấp-nô (sa. vaiṣṇava) chỉ mới xuất hiện ở thế kỉ thứ 5. Trong hình tượng Hắc Thần, người ta thấy được sự hoà hợp của nhiều trào lưu tế lễ thành một đơn vị.
Cùng với Ba-la-la-ma (sa. balarāma = saṃkarṣaṇa) - một Thần thể có những nét âm phủ cũng như tương quan đến phong tục tôn thờ rắn rồng và được xem là người anh - Hắc Thần được tôn thờ như một cặp thần và được xây đền thờ. Hắc Thần cũng được thờ trong nhóm Ngũ Anh Hùng (sa. pañcavīra) gồm chính Hắc Thần, em là Ba-la-la-ma, hai con trai là Tam-ba (sa. sāmba), Đại Hùng Kiệt (sa. pradyumna) và cháu là A-nậu-lâu-đà (sa. aniruddha) trong bộ tộc Vrishni (sa. vṛṣṇi). Sau việc loại Tam-ba ra khỏi nhóm này thì những đại biểu của một trong hai nhóm quan trọng còn lại - các vị thuộc nhóm Ngũ Dạ (sa. pañcarātrin) - trong bốn thiên nhân còn lại những bước phân tán (sa. vyūha) đầu tiên của thần thể tối cao.
Nội bộ những đại biểu của nhóm thứ hai, các tín đồ Bạc-già-phạm, thì Hắc Thần Bà-tu-đề-bà (sa. kṛṣṇavāsudeva = con của Vasudeva) được xem là hiện thân toàn vẹn (sa. pūrṇāvatāra) của thần Tì-thấp-nô Na-la-diên-na (sa. viṣṇu-nārāyaṇa), được tôn xưng là vị thần tối cao.