Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, Việt Nam chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Độc lập và thống nhất là điều kiện tiên quyết để đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đảm bảo cho nền độc lập và thống nhất đất nước thêm bền vững.
Độc lập và thống nhất đất nước không những gắn với nhau mà còn gắn với chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường phát triển hợp quy luật của cách mạng Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (họp từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976) đã tổng kết 21 năm (1954 – 1975):
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kháng chiến chống Mĩ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 – 1980).
Nhiệm vụ: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu:
Xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công – nông nghiệp.
Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động.
Thực hiện kế hoạch 5 năm, nhân dân ta đạt được những thành tựu quan trọng:
Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải được khôi phục và bước đầu phát triển.
Trong nông nghiệp, diện tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu ha, được trang bị thêm 18 000 máy kéo các loại.
Trong công nghiệp, có nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng như nhà máy điện, cơ khí, xi măng,...
Giao thông vận tải:
Được khôi phục và xây dựng mới 1 700 km đường sắt, 3 800 km đường bộ, 30 000 m cầu, 4 000 m bến cảng.
Tuyến đường sắt Thống nhất từ Hà Nội đi Thành phố Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn đã hoạt động trở lại.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa:
Giai cấp tư sản mại bản bị xoá bỏ, quốc hữu hóa các xí nghiệp, thành lập xí nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh.
Đại bộ phận nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại.
Xoá bỏ những biểu hiện văn hoá phản động của chế độ thực dân phong kiến, xây dựng nền văn hoá mới cách mạng.
Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển.
Hạn chế:
Kinh tế mất cân đối, sản xuất phát triển chậm, thu nhập quốc dân và năng xuất thấp, đời sống nhân dân khó khăn.
Tập đoàn “Khmer đỏ” do Pôn Pốt cầm đầu xâm phạm lãnh thổ Việt Nam.
Tháng 5/1975 chiếm Phú Quốc và đảo Thổ Chu.
22/12/1978, chúng huy động 19 sư đoàn bộ bình, pháo binh, xe tăng tiến đánh Tây Ninh.
Quân ta phản công, tiêu diệt và quét sách quân xâm lược ra khỏi Việt Nam.
7/1/1979, quân đội Việt Nam cùng với lực lượng cách mạng Campuchia tiến công, xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh.
Bảo vệ biên giới phía Bắc:
Hành động của Trung Quốc: ủng hộ Pôn Pốt chống Việt Nam, khiêu khích dọc biên giới phía Bắc, dựng nên sự kiện “nạn kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia.
17/2/1979, quân đội Trung Quốc huy động 32 sư đoàn tấn công biên giới Việt Nam từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu).
Nhân dân Việt Nam ở 6 tỉnh phía Bắc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. 18/3/1979, Trung Quốc rút khỏi Việt Nam.