Lịch sử hình thành và phát triển Đạo giáo Trung quốc
Phật giáo du nhập Trung quốc
editPhật giáo đến Trung Hoa trong thế kỉ thứ nhất sau CN, trong một thời đoạn mà giới tri thức ở đây khát khao tiếp nhận, nhưng lại mang theo những điểm khó dung hoà.
Với tư cách của một tôn giáo đề cao sự giải thoát một cách khắt khe, Phật giáo chủ trương triết học siêu hình và nhận thức học, xem thêm Lượng) với những điểm trung tâm là chân lý, kinh nghiệm bản thân, kiến thức cần có trước, một tín tâm được thể hiện rõ ràng, một cơ sở tâm lý học chuyên chú đến niềm tin đặt nền tảng trên lý giải (sa. hetu, en. reasoning) như một khả năng tự nhiên của loài người - và dĩ nhiên, một tấm lòng tin tưởng.
Những điểm này không thu hút được giới tri thức Trung Hoa và cơ sở luận bàn duy nhất có thể "thuần hoá" hệ thống ngoại lai này là huyền học được các Tân Đạo gia (sau thế kỉ thứ 2) đề xướng. Huyền học chuyên chú vào ý nghĩa siêu hình của tồn tại và phi tồn tại (hữu vô), và hệ thống này lại tương quan mật thiết với khái niệm Niết-bàn trong Phật giáo. Nếu Niết-bàn đối lập Luân hồi thì nó là một trạng thái phi tồn tại hay tồn tại? Niết-bàn là thành tựu tối cao của một vị Phật, là biểu thị của Phật tính.
Tuy nhiên, Phật giáo được trang bị với một nghịch thuyết rất có thể đã gây cảm hứng đến các Đạo gia, đó là sự nghịch lý của lòng tham ái. Luân hồi hay sự tái sinh làm người được xem như là kết quả của tham ái và Niết-bàn chỉ có thể được thực hiện khi hành giả từ bỏ tham ái. Nhưng như vậy có nghĩa là, để thành tựu Niết-bàn, hành giả cũng phải lìa bỏ lòng ham muốn thành tựu nó. Cách lập luận này cho thấy ý nghĩa tinh tế của hình tượng tiêu biểu trong Phật giáo Đại thừa là Bồ Tát, một người đã đạt những điều kiện tiên quyết để chứng ngộ Niết-bàn, nhưng vẫn lưu lại Luân hồi để cứu độ chúng sinh.
Nhánh Đại thừa của Phật giáo được phổ biến rất thành công tại Trung Hoa vì giáo lý của trường phái này - mặc dù chỉ được thể hiện một cách ám thị - hàm dung một cái nhìn bình đẳng: Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, tương tự trường hợp ai cũng có thể thành một Đạo gia hoặc một Nho gia.Nhánh triết học Phật giáo gây ảnh hưởng lớn nhất tại Trung Hoa là Trung quán tông), giải đáp vấn đề bản chất của Niết-bàn hoặc Phật tính bằng cách không giải đáp. Niết-bàn được thực hiện bằng một loại trí huệ đặc biệt, bất khả thuyết, bất khả tư nghị (Bát-nhã, Bát-nhã-ba-la-mật-đa). Và đây cũng là điểm thúc đẩy sự hoà nhập của khái niệm Đạo và Niết-bàn cũng như sự kết luận "Niết-bàn và Đạo là một".
Hai trường phái Phật giáo quan trọng với vũ trụ quan có điểm tương đồng với Tân Đạo gia là Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông. Thiên Thai tông chủ trương "một niệm phát sinh tam thiên đại thiên thế giới xuất hiện và Hoa Nghiêm tông nhấn mạnh đến khía cạnh "Lý sự vô ngại" và "Sự sự vô ngại". Sự tương tác, xuyên suốt của vạn vật chính là sự thể hiện của Phật tính.
Tông phái có nhiều điểm tương đồng với Đạo giáo nhất là Thiền tông. Thành phần Đạo giáo của Thiền có thể được hiểu rõ hơn khi tham chiếu lại nghịch lý "tham ái". Lão tử nói: Ai thường không có ham muốn (dục) thì thấy được cái huyền diệu (của Đạo), ai ham muốn thì chỉ thấy những cái nhỏ nhặt Đạo Đức kinh I). Nếu hành giả Phật giáo lìa bỏ tham ái để đạt Niết-bàn thì phải quên cả hai, Niết-bàn và Luân hồi. Và sự kiện này lại tương ứng câu giải đáp bí ẩn dành cho bản chất Niết-bàn cũng như nhấn mạnh lần nữa sự đề cao cách thực hành của Thiền tông "ngay lúc này, ngay đây", sự trực nhận "tất cả chúng sinh bản lai là Phật".
Việc từ khước lý thuyết Phật giáo của các Đạo gia được tiếp nối bởi một đặc điểm khácv . Nhấn mạnh sự hấp thụ hoàn toàn vào thực hành trên một cấp bậc cao. Thiền tông Trung Hoa lập cơ sở chủ yếu trên quan điểm Đốn ngộ, nghĩa là "giác ngộ ngay lập tức", và như thế, Thiền tông phản bác tất cả những quá trình tu tập "Bạn không thể đến gần hơn - chính vì Bạn đang ở ngay trong Đạo".
Điểm tương đồng giữa Đạo giáo và Thiền tông được minh hoạ rất hay trong Công án thứ 19 của tác phẩm Vô môn quan và Triệu Châu Chân Tế Thiền sư ngữ lục. Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm hỏi Nam Tuyền Phổ Nguyện:
- Sư hỏi Nam Tuyền: "Thế nào là Đạo?"
- Nam Tuyền đáp: "Tâm bình thường là Đạo."
- Sư hỏi: "Có thể hướng đến được không?"
- Nam Tuyền đáp: "Nghĩ tìm đến là trái."
- Sư lại hỏi: "Chẳng nghĩ suy thì làm sao biết Đạo?"
- Nam Tuyền đáp: "Đạo chẳng thuộc về hiểu biết hay không hiểu biết. Biết là vọng giác (khái niệm), không biết là vô ký (vô minh). Nếu thật đạt Đạo thì không còn nghi ngờ, [Đạo] như hư không thênh thang rộng rãi, đâu thể cưỡng nói là phải là quấy."
- Sư nhân nghe lời này lập tức ngộ được huyền chỉ, tâm sư sáng như trăng tròn.
Cac trường phái học thuyết ở Trung quốc
editNhìn chung có 3 trường phái học thuyết lớn
- Đạo học chủ trương tu tánh thiên về vấn đề giác ngộ, quay về với nội tâm tìm sự thanh tĩnh để đạt Đạo, tương đương phương pháp Đốn ngộ của Phật giáo. Đại diện cho trường phái này là Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử (khoảng thế kỷ thứ 4 trước CN) viết Xung Hư chân kinh, Quan Doãn Tử viết Văn Thủy Chân Kinh, Trần Hi Di tức Trần Đoàn Lão Tổ (khoảng 900, đầu thời Tống) là người đã sáng lập khoa Tử vi.
- Tiên học (còn gọi là Đơn Đạo) khác với Đạo học, là phương pháp tiệm tu, đi từ thấp đến cao, từ thô tới tinh, từ hữu vi đến vô vi; có mục tiêu tu hành phản lão hoàn đồng, trường sinh bất lão tức là chủ trương tu tạo nên một xác thân tráng kiện, dần dần tiến đến thân tâm an lạc và cuối cùng mở được tuệ giác và chung cuộc vẫn đi đến chỗ Thiên Nhân hiệp nhất, huyền đồng cùng Trời Đất. Phái Tiên Học cũng thờ Lão Tử nhưng có 3 vị đứng đầu là Đông Hoa Đế Quân Lý Thiết Quải (sống vào thời nhà Hán) tu ở núi Côn Lôn; Chung Ly Quyền (cuối thời Đông Hán), đứng đầu Bát Tiên; Lữ Động Tân là đồ đệ của Hán Chung Ly.
- Thuật học - Đạo giáo nhân gian hay Đạo giáo phù thủy do Trương Đạo Lăng, người nước Bái đến núi Tứ Xuyên tu luyện, là cháu 8 đời của Trương Lương thời Tam Quốc (đời Hán – 206 trước CN và 220 sau CN) sáng lập "Đạo 5 đấu gạo" (Ngũ đấu mễ đạo: ai muốn vào Đạo thì phải nộp 5 đấu gạo), thờ Lão Tử tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân dùng kinh kệ, bùa chú, phương thuật, tế lễ… để thu hút tín đồ, được hậu thế phong là Trương Thiên Sư.
Với các tông phái sau:
- Nam Tông sáng lập bởi Trương Bá Đoan gồm có Lưu Thao được Chung Ly Quyền truyền Đạo năm 911
- Bắc Tông còn gọi là Toàn Chân Phái, sáng lập bởi giáo chủ là Vương Trùng Dương, người Hàm Dương, có 7 đệ tử: Khưu Xứ Cơ, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Mã Ngọc, Hách Đại Thông, Vương Xứ Nhất, Tôn Bất Nhị. Doãn Chân Nhân, người giảng Hoàng Cực hợp Tích Chứng Đạo Tiên Kinh và Liêu Dương Điện Vấn Đáp sau tập hợp thành Tính Mệnh Khuê Chỉ là học trò của Khưu Xứ Cơ
- Đông phái do Lục Tiềm Hư (Lục Tây Tinh) sáng lập năm 1567 đời Minh Mục Tông.
- Tây phái do Lý Hàm Hư đời Thanh Hàm Phong sáng lập (1851)
- Trung phái do Lý Đạo Thuần sáng lập đời Nguyên, đề cao chữ Trung.
- Trương Tam Phong phái: (cuối nhà Nguyên, đầu triều Minh).
Như vậy, Đạo giáo cũng giống như Nho giáo và Phật giáo, ngày càng đi xa chân truyền của vị Giáo Tổ khai sáng. Ngày nay tại Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông, Đạo giáo vẫn còn rất thịnh hành. Riêng Đài Loan, có tất cả 86 giáo phái hoặc tổ chức Đạo giáo được chính quyền hỗ trợ, nhưng có 6 môn phái nổi bật:
- Phái Chính Nhất hay phái Thiên Sư thuộc Long Hổ Sơn.
- Phái Mao Sơn với hai loại pháp môn: nội luyện theo kinh Huỳnh Đình và võ công theo Kỳ Môn Độn giáp.trừ tà ma.
- Phái Thái Cực với pháp môn tu luyện theo truyền thống Trương Tam Phong và pháp môn võ thuật.
- Phái Toàn Chân theo đường lối của Vương Trùng Dương.
- Phái Thần Tiên: chuyên về biểu diễn bán thuốc hoặc kiếm tiền.
- Phái Lư Sơn thiên về bí thuật.
Tu tiên Trang Tử
editMãi đến khi Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN) áp dụng va phát triển Lão giáo , học thuyết của Lão Tử mới lại được người đời chú ý. Trong Nam Hoa chân kinh của Trang Tử, các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN.
Bộ Nam Hoa chân kinh thì được viết với một phong cách hoàn toàn khác. Tác phẩm này được biên soạn ở thế kỉ thứ 4 trước CN và tương truyền tác giả là Trang Tử (vì vậy mà tên ngắn của tác phẩm này cũng là Trang Tử, tên tác giả). Trong Nam Hoa kinh, thể tính của Đạo được miêu hoạ qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện hàm dung những cuộc đàm thoại triết học. Trang Tử lấy nhiều điểm được nhắc đến trong Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng lại bài bác những điểm khác một cách rõ ràng. Ví dụ như Trang Tử không hề nhắc đến việc nhắc nhở những nhà cầm quyền an quốc trị dân. Một chân nhân vô sự, lìa thế gian là người lý tưởng trong tác phẩm này. Như trường hợp Đạo Đức kinh, việc xác nhận tác giả của tác phẩm này cũng là một điểm tranh luận lớn. Mặc dù Trang Tử được xem là một nhân vật lịch sử nhưng theo những nhà nghiên cứu sau này thì tác phẩm Nam Hoa chân kinh phần lớn có lẽ được các đệ tử sau này biên tập.
Thiên sư đạo Trương Đạo Lăng
editTổ chức Đạo giáo đầu tiên xuất hiện trong thế kỉ thứ hai sau CN, khi Trương Đạo Lăng khởi xướng phong trào Thiên sư đạo tại tỉnh Tứ Xuyên năm 142. Trương Đạo Lăng học được phép trường sinh bất lão, vào đất Thục ngụ ở núi Hạc Minh soạn ra bộ Ðạo thư gồm 24 chương và chuyên làm bùa để trị bệnh.
Trương Đạo Lăng đã bắt chước theo Phật giáo và thâu nhiếp các thành phần của Toả-la-á-tư-đức giáo (zh. en. Zoroastrianism). Ông đã kết hợp nền triết học cổ truyền của Lão giáo với giáo lý Phật giáo như những thuyết về kiếp số, những luật khai độ để lập thành Ðạo giáo.
Trong phái mang tên Ngũ Đẩu Mễ Đạo - gọi theo số gạo đồ đệ phải nộp để gia nhập - người ta tìm thấy những yếu tố, tư tưởng cứu thế chủ và cách mạng: Vương triều Hán nên bị lật đổ để Thiên sư Trương Đạo Lăng cai trị và thời đoạn cuối của thế giới bắt đầu.
Đạo gia khí công
editTruyền thống tu luyện
editNgoài ra, còn có những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử bằng cách dưởng sinh
Trước thời Đông Hán (58) bộ môn khí công được chia làm hai loại và phương pháp luyện tập hầu như chưa nhuốm màu sắc tôn giáo như vào những thời đại sau này. Một loại được các môn đồ của Lão giáo và Khổng giáo thường xuyên luyện tập nhằm mục đích dưỡng sinh bảo tồn sức khỏe . Loại khác được sử dụng bởi Y-gia trong việc điều trị dưới những hình thức như châm, cứu, án, ma, kết hợp với nhiều động tác để điều chỉnh, quân bình khí huyết hoặc để chữa trị bệnh tật.
Lịch sử phát triển
editSau này khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, một số những kỹ thuật khí công từng được luyện tập bên Ấn Ðộ cũng bắt đầu được lưu truyền tại Trung Quốc. Ðặc biệt vì vua chúa nhà Hán đa số là những Phật tử thuần thành, nên Phật giáo nghiễm nhiên trở thành một tôn giáo chính, nhờ thế nên các chư tăng đã có cơ hội học hỏi một số phương pháp luyện tâm, định thần. Tuy nhiên vì trở ngại về giao thông và truyền thống nên họ đã không thu thập được toàn bộ các phương pháp nói trên.
Hơn nữa, trong khoảng gần năm thế kỷ Phật giáo được phổ biến ở Trung Quốc, chỉ có hai vị cao tăng của Phật giáo Ấn Ðộ được mời sang thuyết giảng về Phật học. Theo sử sách, vị thứ nhất là Pao Jaco (Mỹ-Lệ Phật) và vị thứ nhì là Bồ-đề-đạt-ma. Tình trạng này đưa đến hậu quả là các tăng ni Trung Quốc hoàn toàn học hỏi, nghiên cứu triết học, giáo lý Phật giáo qua kinh điển, chứ không được trực tiếp truyền thụ bởi những bậc thầy uyên thâm về kiến thức cũng như về kinh nghiệm tu tập. Nên từ đó những cách thức tu luyện của các giáo sĩ Phật giáo Trung Quốc đã hoàn toàn khác biệt với giáo sĩ Phật giáo Ấn Độ. Họ quan niệm rằng phần tâm linh là chính, xác thân là phụ, nên chỉ chú trọng vào việc tôi luyện tinh thần, mà sao lãng phần thể xác. Thêm vào đó, vì chế độ dinh dưỡng thiếu quân bình nên đa số các sư sãi Trung Quốc thời bấy giờ nếu không bệnh hoạn thì cũng yếu kém về thể lực. Tình trạng bi đát này tiếp tục kéo dài mãi cho đến khi Ðạt Ma đặt chân lên đất Trung-hoa vào năm 527 dưới triều nhà Lương.
Bồ Đề Ðạt Ma ra đời vào khoảng năm 483, ông nguyên là hoàng tử của một tiểu quốc thuộc miền nam Ấn Ðộ, sau thoát tục trở thành tăng sĩ thuộc hệ phái Mahayana, thường được xem là một vị Bồ Tát chuyên cứu độ chúng sanh. Theo sự thỉnh cầu của Lương Vũ Đế năm 527, ông đến Trung Hoa để thuyết pháp. Về sau khi thấy nhà vua và triều đình không đồng ý với những tư tưởng ông truyền bá, ông đã lui về ẩn thân ở Thiếu Lâm tự. Tại đây, nhận thấy đa số chư tăng đều ốm yếu và bệnh hoạn, ông đã trao tặng họ hai bộ Dịch Cân kinh và Tẩy Tủy kinh, là những phương pháp tu luyện khả dĩ giúp họ thăng tiến trên đường tu tập.
Dịch Cân kinh hướng dẫn các sư tăng làm cách nào để gia tăng thể lực, thay đổi bản chất từ yếu đuối suy nhược đến chỗ tráng kiện. Phương pháp này đã giúp học sau một thời gian luyện tập không những sức khỏe được hồi phục, còn tăng cường thể lực. Hơn nữa khi phối hợp những kỹ thuật của Dịch-Cân kinh với võ thuật, những chiêu thức cũ bỗng trở nên vô cùng dũng mãnh và lợi hại. Riêng môn Tẩy-Tủy công là một phương pháp "rửa" sạch chất tủy, gia tăng số lượng hồng huyết cầu, tăng cường sức đề kháng của cơ thể, đồng thời trì hoãn lại sự già nua của các tế bào, nhưng quan trọng nhất là những ảnh hưởng trực tiếp đến não bộ, giúp họ trong việc an định tinh thần, là phần tối quan trọng trong tiến trình tu tập để đạt đến sự giác ngộ. Vì những môn công phu này rất cao về phần lý thuyết và khó luyện tập, nên mỗi thế hệ sư tăng chỉ có một số ít cao đồ được bí mật truyền dạy và thành đạt.
Vào giai đoạn này, sự liên hệ giữa hai giáo phái trở nên rất mật thiết, nên sau khi Bồ-đề-đạt-ma qua đời, Ðạo gia dần dà cũng nắm được những bí kiếp luyện khí công của Phật gia. Chỉ vài trăm năm sau, môn Dịch-Cân Kinh hầu như đã được truyền bá rất rộng rãi trong giới Ðạo-gia. Ðến đời nhà Tống (960), Thái Cực quyền, một môn nội đan khí công chú trọng đến việc luyện khí được sáng tác bởi Ðạo-sĩ Trương-Tam-Phong trên núi Võ Ðang, đã biến địa danh này trở thành trung tâm điểm của Ðạo-giáo và phái Nội-Ðan khí công. Trong khi đó Thiếu-Lâm tự thường được coi là nơi có nhiều thẩm quyền hơn về môn Ngoại-Ðan khí công.
Tẩy-Tủy công tưởng đã bị thất truyền, cơ may xảy ra dưới thời nhà Thanh (1644-1912) khi cả Phật-gia lẫn Ðạo-gia đều góp phần vào công cuộc lật đổ triều đại này. Ðể đàn áp và trả thù, rất nhiều đạo sĩ, tăng sĩ đã bị bắt bớ, tù đầy, giam cầm, khủng bố và sát hại; số lượng chùa chiền, đạo quán bị quan quân nhà Thanh đốt phá cũng không ít (điển hình là trường hợp chùa Thiếu Lâm, núi La Phù). Một số đạo sĩ, cao tăng may mắn đào thoát được, và để tiếp tục kháng chiến họ bắt đầu truyền dạy những tuyệt kỹ của môn Dịch-Cân kinh và Tẩy-Tủy công cho dân gian. Nhờ vậy cả hai bí kiếp này vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay.
Tu tập Khí công
editCùng quan niệm như Phật-gia, Ðạo-gia tin rằng căn nguyên của những phiền não thế tục là do thất tình, lục dục mang đến. Muốn chế ngự được những cảm xúc này chúng ta phải tu tập và tôi luyện để thần khí đạt đến được trạng thái an định, độc lập. Từ đó không những giác ngộ, trường sinh bất lão còn có thể làm chủ được định mệnh của mình sau khi lìa thế. Tiến trình luyện tập của Ðạo-gia được chia làm 3 giai đoạn:
- Luyện tinh hóa khí: Giai đoạn này liên quan đến việc gia tăng và kết tụ nguyên tinh (original essence). Sau đó chuyển hóa tinh thành khí bằng những phương pháp thiền định hay những kỹ thuật nội công theo đúng một chu kỳ là 100 ngày.
- Luyện khí hóa than: Sau một thời gian luyện tập, khí được luân chuyển theo đại chu thiên hay chính là pháp giới hậu thiên. Qua giai đoạn này đã đủ nằm ngoài tam giới không thuộc luân hồi.
- Luyện thần phản hư: Giai đoạn tu luyện đưa thần trở về với hư không (vô-cực).
Dịch-Cân kinh và Tẩy-Tủy công cũng được Ðạo-gia coi là những phương pháp giúp chống lại sự già nua, kéo dài tuổi thọ. Trong khi Dịch-Cân kinh tôi luyện phần thân xác, thì Tẩy-Tủy công giúp khí lưu chuyển trong tủy sống, giúp tủy sạch sẽ tươi nhuận. Tủy sống là nơi sản xuất phần lớn số lượng hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Chúng có nhiệm vụ mang những dưỡng chất cần thiết cho việc nuôi dưỡng các tế bào cùng các cơ quan trong cơ thể của chúng ta, đồng thời tẩy trừ, thanh lọc các chất cặn bã và độc tố. Khi hồng huyết cầu tươi tốt hoạt động bình thường, cơ thể chúng ta khỏe mạnh hữu hiệu trong việc chống lại bệnh tật, đình trệ sự già nua. Vì thế đối với Ðạo-gia trên 100 tuổi vẫn chưa được coi là thọ. Tục truyền Lão tử thọ đến 250 tuổi.
Nhằm mục đích tôi luyện Thân, Tâm. Ðạo-gia đề ra 3 đường lối để luyện tập:
- Kim Ðơn Ðại Ðạo: Ðường lối này hướng dẫn cách luyện tập tự bản thân vì cho rằng chúng ta có thể đạt được sự trường sinh bất lão hay giác ngộ tự bản thể của mỗi cá nhân. Kim Đan Đạo dưới thời nhà Tấn do một ông quan là Cát Hồng khởi xướng chủ trương tu Tiên bằng hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng kim đan gọi là thuốc trường sinh luyện bằng các khoáng chất như thần sa, vàng... Nội tu là rèn luyện thân thể bằng phép dưỡng sinh, tịnh luyện tinh – khí – thần để "hườn Hư".
- Tính Mệnh Song Tu: Cũng chính là phép tu chủ yếu của đạo gia, bao gồm kim đơn như trên và 4 đại phái khác là thái cực, phù lục, kiếm tiên và huyền chân. Mục đích đều là hoàn đến vô cực dù trời đất có hư hoại vẫn không bị ảnh hưởng, có thể tái lập thiên địa, pháp lực vô biên. Các công phu này vẫn là cực bí mật ít người biết.(Lục Tiềm Hư đề xướng).
- Ðạo Ngoại Dược Giáo: Cách này chuyên dùng dược liệu để vận hành và kiểm soát khí lực trong khi luyện tập. Những vị như sâm, nhung thường được sử dụng để bào chế phương dược. Theo một số đông Ðạo-sĩ, dược liệu cũng có nghĩa là khí. Có thể trao đổi hoặc tiếp nhận do đó họ chủ trương lối sống khoáng dật.