Triết học không chuyên/6/Phương pháp và phương pháp luận; các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phương pháp và phương pháp luận
editKhái niệm phương pháp
editThuật ngữ "Phương pháp" có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ methodos (với nghĩa là con đường nghiên cứu hay con đường nhận thức, lý luận, học thuyết v.v). Trong triết học Hy Lạp cổ đại, vấn đề bản chất của phương pháp đã được nêu ra và gây nên sự tranh luận sôi nổi. Phần lớn các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều cho rằng, phương pháp được thể hiện trong mối quan hệ giữa kết quả nhận thức với phương pháp nhận thức. Nhưng khả năng hệ thống hoá sự phát triển của phương pháp nhận thức và phương pháp nghiên cứu chỉ bắt đầu từ thời cận đại, khi khoa học thực nghiệm xuất hiện. Từ đó, sự phát triển, hoàn thiện phương pháp mới trở thành một bộ phận quan trọng trong sự tiến bộ của khoa học.
Theo Ph.Ăngghen, “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”[1]. Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định[2]. Là sự phản ánh vào óc người biện chứng khách quan của hiện thực, phép biện chứng duy vật là phương pháp khoa học của triết học biện chứng duy vật và của các khoa học nói chung, là cơ sở của nhận thức lý luận tự giác, phép biện chứng duy vật là phương pháp dùng để nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những mâu thuẫn trong sự phát triển của hiện thực, đưa lại chìa khoá để nghiên cứu tổng thể những quá trình phức tạp của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, phép biện chứng duy vật được áp dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực và có vai trò quyết định trong việc xác định kết quả nghiên cứu và cải tạo sự vật, hiện tượng bởi, phép biện chứng duy vật không chỉ đưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận đến sự vật, hiện tượng nghiên cứu, mà đồng thời còn là điểm xuất phát dưới góc độ đánh giá thế giới quan đối với những kết quả đạt được.
Phương pháp gắn liền với hoạt động có ý thức, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trước khi hành động, con người thường phân tích hoàn cảnh, đặt ra mục tiêu tương ứng, xác định cách thức và phương tiện để đạt được mục tiêu đó rồi mới tác động lên sự vật, hiện tượng theo hệ thống những nguyên tắc nhất định. Hệ thống những nguyên tắc tạo nên phương pháp giải quyết nhiệm vụ thực tiễn được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữa con người với tự nhiên, chỉ rõ phải hoạt động thế nào để đạt được mục tiêu nhất định. Tuy vậy, cách thức và phương tiện mà con người sử dụng để đạt được mục tiêu đã đề ra không phải xuất hiện tuỳ tiện, ngẫu nhiên, mà được quy định bởi nội dung của mục tiêu đó và chúng được khái quát thành những nguyên tắc mà con người nhất định phải tuân theo khi thực hiện những hành động tương ứng. Những phương pháp có chi phí thấp nhất, đạt hiệu quả cao nhất, thể hiện những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong hoạt động cải tạo hiện thực có mục đích của con người, được lựa chọn và bảo tồn trong hoạt động thực tiễn và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nhờ ngôn ngữ. Như vậy, phương pháp bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan vốn có đã được nhận thức thông qua thực tiễn để định hướng các hoạt động nhằm đạt được mục đích con người đặt ra. Cơ sở lý luận trực tiếp của phương pháp là các quy luật khách quan đã được con người nhận thức và được diễn đạt bằng lý luận và lý luận đó là hạt nhân, là cốt lõi để từ đó các nguyên tắc tạo nên nội dung của phương pháp được xây dựng. Tóm lại, phương pháp, về một mặt có nội dung khách quan, được quy định bởi bản chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng đang được nghiên cứu thông qua lý luận phản ánh chúng, mặt khác, phương pháp chỉ tồn tại trong hoạt động có thức của con người chứ không tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Phương pháp càng đúng đắn thì hiệu quả của hoạt động càng cao và ngược lại. Ph.Bêcơn ví phương pháp như “ngọn đuốc soi đường cho người đi trong đêm tối”. Ph.Hêghen ví phương pháp là “linh hồn của đối tượng”. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của phương pháp, nhất là trong hoạt động cách mạng. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra thì việc xác định phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp để thực hiện mục tiêu đó có ý nghĩa hết sức to lớn. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng, sau khi đã xác định được mục tiêu thì phương pháp trở thành yếu tố góp phần quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện mục tiêu đó.
Sự đa dạng của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự đa dạng của phương pháp. Các khoa học khác nhau, nghiên cứu những sự vật, hiện tượng khác nhau thì có những phương pháp khác nhau phù hợp với mục tiêu mà khoa học đó đặt ra để nghiên cứu. Các phương pháp, do sự quy định đó và tuỳ thuộc vào các tiêu chí khác nhau được chia thành các nhóm có quan hệ tác động qua lại với nhau là phương pháp riêng, phương pháp chung, phương pháp phổ biến và phương pháp nhận thức, phương pháp thực tiễn. Trong đó, phương pháp riêng (như phương pháp hoá học, phương pháp lý học, phương pháp xã hội học v.v) là phương pháp chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể. Phương pháp chung (như phương pháp quan sát, thí nghiệm, mô hình hoá v.v) là phương pháp được áp dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau. Phương pháp phổ biến là phương pháp duy vật biện chứng (hình thành từ những nguyên tắc như phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, quy nạp và diễn dịch v.v)[3] được áp dụng trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phương pháp nhận thức là phương pháp phản ánh để nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Phương pháp hoạt động thực tiễn (như phương pháp cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội v.v) là phương pháp sử dụng các phương tiện vật chất để tác động trực tiếp vào sự vật, hiện tượng nhằm biến đổi chúng theo nhu cầu của con người. Tuy nhiên, sự phân chia phương pháp ra thành từng loại khác nhau chỉ mang tính tương đối. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải vận dụng tổng hợp các phương pháp, không tuyệt đối hoặc coi nhẹ phương pháp nào, bởi mỗi phương pháp có chức năng, nhiệm vụ khác nhau và giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, hỗ trợ cho nhau. Trong điều kiện hiện nay, trước nhu cầu phải có những bước tiếp cận và những cách giải quyết không tuân theo những nguyên tắc nhất định, thì việc nhận thức vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của phương pháp biện chứng duy vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. "Mọi nhận thức thế giới của Mác-đó không phải là học thuyết mà là phương pháp. Nhận thức thế giới của Mác không mang lại những giáo điều có sẵn, mà chỉ mang lại những điểm xuất phát để tiếp tục nghiên cứu và là phương pháp cho việc nghiên cứu đó"[4].
Khái niệm phương pháp luận và các cấp độ phương pháp luận
editThuật ngữ “Phương pháp luận” có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ với nghĩa là phương pháp và lời nói, khái niệm, học thuyết. Là người đóng vai trò đặc biệt trong việc nghiên cứu phương pháp luận trong triết học Hy Lạp cổ đại, Xôcrát đặt vấn đề bản chất biện chứng của tư duy lên trên hết và coi đây là sự đạt tới chân lý nhờ quá trình so sánh, đối chiếu, phân chia, xác định những ý niệm, khái niệm khác nhau. Platôn xem xét ý nghĩa của các khái niệm và các phạm trù biện chứng trong sự tìm kiếm nguyên tắc của mỗi sự vật và để đạt được ý nghĩa đó, lôgíc hình thức cần tương ứng với đối tượng nhận thức. Còn Arítxtốt đưa ra nguyên tắc xây dựng các khái niệm; quy tắc của kết luận và chứng minh; đưa vấn đề xác định các thuật ngữ, vai trò của quy nạp và diễn dịch trong việc chinh phục chân lý. Đóng góp của Arítxtốt đối với việc nghiên cứu phương pháp luận nằm ở học thuyết về các khái niệm, được ông xây dựng với tính cách là học thuyết về các hình thức của nhận thức, về biện chứng của các khái niệm (mối quan hệ qua lại giữa cái khả năng với cái thiết yếu, hình thức và vật chất v.v.). Arítxtốt coi lôgíc hình thức mà ông tạo ra là "organôn"- vũ khí tổng hợp của nhận thức chân lý. Thời Trung cổ, vấn đề phương pháp luận không có vị trí đặc biệt trong hệ thống tri thức mà nhờ sự cải tổ sâu sắc trong lĩnh vực văn hoá tinh thần trong đêm trước của cách mạng tư sản thế kỷ XVII-XVIII, kéo theo sự phát triển mang tính bùng nổ của tri thức khoa học tự nhiên, đòi hỏi có sự thay đổi đến tận gốc quan niệm về phương pháp luận để chống lại quan niệm của Ph.Bêcơn về cách tiếp cận trực quan, quy nạp đối với các hiện tượng của tự nhiên và công nhận các nguyên tắc hình học do G.Galilê (1564-1642) và cơ học do R.Đềcáctơ (1596-1650) tạo ra là hình mẫu của phương pháp luận khoa học. Hướng khác trong việc nghiên cứu phương pháp luận thời cận đại thuộc về G.Lốccơ (1632-1704), đại diện của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh, người hướng sự nghiên cứu phương pháp luận vào những khả năng của nhận thức như có hay không có khả năng xây dựng khoa học thực nghiệm dựa trên cơ sở của kinh nghiệm cảm tính. Triết học cổ điển Đức, từ I.Cantơ đến Ph.Hêghen, đã chỉ ra sự hạn chế mang tính duy lý, kinh nghiệm của các hướng trên trong việc nghiên cứu phương pháp luận và xây dựng hướng nghiên cứu phương pháp luận biện chứng duy tâm. Những quan điểm về phương pháp luận trong lịch sử triết học được tổng hợp và cải tạo trên cơ sở biện chứng duy vật, phong phú hơn nhờ những thành tựu mới của khoa học và của thực tiễn xã hội, tạo ra phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin - phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Những phương pháp luận biện chứng tự phát đã được phương pháp luận biện chứng duy vật cải biến tận gốc.
Phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc, các phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng chính là học thuyết về hệ thống đó[5]. Nó giải quyết những vấn đề như, phương pháp là gì? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? Phân loại phương pháp ra sao? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người thế nào? v.v. Có thể nói cụ thể hơn, phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa[6]. Phương pháp luận biện chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất, có tính tổng hợp; là sự thống nhất của các phương pháp luận chuyên ngành, được cụ thể hoá trong các lĩnh vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tương ứng với các điều kiện và các nhiệm vụ của các hoạt động đó. Phương pháp của triết học Mác-Lênin là phương pháp biện chứng duy vật, là hệ thống các nguyên tắc, yêu cầu nằm trong mối liên hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau, quy định một trình tự nghiêm ngặt trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, còn vai trò phương pháp luận của phép biện chứng duy vật nằm ở chỗ, nó định hướng khoa học tới những phát hiện các mối liên hệ tự nhiên, khách quan giữa các sự vật, hiện tượng đa dạng, phức tạp của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Từ lý luận về phương pháp phân tích các hình thức của nhận thức đến lý luận về phương pháp phân tích hiện thực khách quan và những quy luật về sự phát triển của chính hiện thực khách quan, phương pháp luận biện chứng duy vật có vai trò định hướng việc nghiên cứu toàn diện, có nội dung sâu sắc về sự phát triển đó và là vũ khí không chỉ của nhận thức lý luận, mà còn là vũ khí của cải biến cách mạng hiện thực trong giai đoạn xây dựng xã hội mới. Ngoài ra, phương pháp luận biện chứng duy vật còn tạo cơ sở cho sự nhận thức tính tương ứng của các mối quan hệ giữa lý luận với phương pháp, đồng thời nhận thức được vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức. Nếu lý luận thể hiện mình là kết quả (tri thức) của quá trình nhận thức, thì phương pháp luận là phương pháp dùng để đạt tới và xây dựng tri thức đó. Là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là lý luận về hệ thống phương pháp và là khoa học về phương pháp, phương pháp luận biện chứng duy vật là học thuyết về phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo thế giới. Trong hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp, quan trọng nhất là thế giới quan. Với tư cách là nguồn gốc và cơ sở của phương pháp luận, toàn bộ hệ thống tri thức phương pháp luận đều gắn trong mình sự diễn giải thế giới quan, cơ sở của sự nghiên cứu và đánh giá những kết quả của nó, thế giới quan định hướng trong quá trình tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Các nguyên lý chung về cách nghiên cứu sự vật, hiện tượng, các nguyên tắc chung về vận dụng phương pháp, sử dụng tài liệu, sự kiện trong ngành khoa học. Lý luận chung về bản thân các phương pháp của ngành khoa học ấy. Tất cả các bộ phận trên gắn bó mật thiết với nhau tạo nên hệ thống lý luận chặt chẽ, thống nhất, là các thành phần không thể thiếu của các ngành khoa học.
Trong nhận thức không nên nhầm lẫn giữa phương pháp với phương pháp luận, giữa chúng có sự khác nhau tương đối. Phương pháp là con đường dẫn đến mục tiêu đã xác định còn phương pháp luận giữ vai trò chỉ đạo, vạch hướng và dẫn đường trong việc xây dựng và vận dụng phương pháp. Phương pháp luận là những quan điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể xác định phương pháp một cách đúng đắn, còn phương pháp là cách thức hoạt động cụ thể của chủ thể. Như vậy, phương pháp luận nghiên cứu phương pháp nhưng không xác định phương pháp cụ thể mà chỉ rút ra những quan điểm, nguyên tắc chung cho việc xác định và áp dụng phương pháp. Nhưng cũng phải thấy được sự thống nhất giữa phương pháp và phương pháp luận. Phương pháp luôn xuất phát từ quan điểm, nguyên tắc của phương pháp luận, còn phương pháp luận là cơ sở nghiên cứu các phương pháp cụ thể.
Trong sự hiện diện của nhiều phương pháp, tất nhiên sẽ nảy sinh vấn đề lựa chọn những phương pháp tương đối thích ứng và đánh giá phương pháp đó từ góc độ hiệu quả việc giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. Điều này chứng minh vai trò tiền đề của phương pháp luận, cho phép đánh giá các phương pháp từ góc độ tính chân thực cũng như từ góc độ tính hiệu quả của chúng. Phương pháp luận được phân chia thành các hình thức khác nhau gồm phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Trong đó, phương pháp luận bộ môn là những quan điểm, nguyên tắc xác định các phương pháp nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của các bộ môn khoa học cụ thể, như phương pháp luận toán học, phương pháp luận vật lý học, phương pháp luận sinh học v.v. Phương pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo việc xác định phương pháp của một nhóm các ngành khoa học có những điểm chung nhất định nào đó, như phương pháp luận chung của các ngành khoa học tự nhiên, xã hội. Phương pháp luận triết học là những quan điểm, nguyên tắc chung nhất, là xuất phát điểm cho việc xác định các phương pháp luận bộ môn, các phương pháp luận chung, các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Các hình thức phương pháp luận trên hợp thành một hệ thống khoa học về phương pháp chỉ đạo nhằm xác định các phương pháp cụ thể một cách đúng đắn. Bởi các hình thức phương pháp luận vừa độc lập tương đối với nhau, vừa bổ sung, xâm nhập vào nhau, do đó, phải biết vận dụng tổng hợp các hình thức phương pháp luận trong các hoạt động. Trong thế kỷ XX, việc nghiên cứu phương pháp luận đã có sự phát triển mau chóng. Đáng chú ý hơn cả là phương pháp luận về sự tự nhận thức của những ngành khoa học khác nhau. Ảnh hưởng đặc biệt đến sự phát triển của phương pháp luận là quá trình phân chia và tổng hợp các tri thức khoa học, là sự cải biến của các ngành khoa học truyền thống và sự xuất hiện của nhiều ngành khoa học mới, chuyển khoa học vào lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội.
Phép biện chứng duy vật phản ánh các mối liên hệ, các quy luật về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy và đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của các ngành khoa học, đáp ứng được những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại và hoạt động cải tạo, xây dựng thế giới. Vì vậy, phép biện chứng duy vật là phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột và xây dựng xã hội mới.
Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
editMột số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản được rút ra từ nội dung của phép biện chứng duy vật[7] giữ vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn cách mạng. Trong quá trình phân tích từng nội dung các nguyên lý, phạm trù, quy luật, chúng tôi đã phần nào đề cập đến những nguyên tắc phương pháp luận của chúng. Dưới đây là một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, được xem xét trong mối liên hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
editNguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự vật, hiện tượng trong toàn bộ mối liên hệ của nó. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau. Do vậy, để nhận thức được sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét nó trong một chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng trong chính sự vật, hiện tượng. Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. Phải đặt sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu vào trong không gian và thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu trong tính toàn vẹn của nó, nghĩa là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng trong chính sự vật, hiện tượng. “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”[8], phải tính đến “tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”[9]. Tuy nhiên, cũng theo V.I.Lênin, chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta không phạm sai lầm và sự cứng nhắc. Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó một cách đầy đủ bởi trong quá trình vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau, trong mỗi giai đoạn tồn tại, phát triển của mình không phải bao giờ sự vật, hiện tượng cũng bộc lộ tất cả các mối liên hệ bên trong của nó, không phải bao giờ cũng bộc lộ các mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Hơn nữa tất cả những mối liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Và bản thân con người, những chủ thể nhận thức, những phẩm chất và năng lực của nó luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không bao giờ có thể bao quát được hết những mối liên hệ bên trong và bên ngoài các sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không thể bổ sung, không thể phát triển. Bởi vậy, khi xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật, hiện tượng phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. Theo V.I.Lênin “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”[10]. Như vậy xem xét toàn diện nhưng không “bình quân, dàn đều” mà có “trọng tâm, trọng điểm”, phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng, phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để khái quát, rút ra mối liên hệ chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của chúng. Trong tính đa dạng của các hình thức và các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới, phép biện chứng duy vật chỉ tập trung nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, mang tính phổ biến. Còn các mối liên hệ riêng trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học cụ thể.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến diện chỉ thấy một mặt này mà không thấy các mặt khác, hoặc chỉ chú đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được mặt bản chất của sự vật, hiện tượng, cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Thuật nguỵ biện cũng chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Chủ nghĩa chiết trung cũng tỏ ra chú đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật, hiện tượng nhưng không rút ra mặt bản chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật, hiện tượng, mà xem xét bình quân, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo thành một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và bất lực trước chúng. Cả thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung đều là những biểu hiện của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật, hiện tượng. Sự khác nhau giữa thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung với phép biện chứng duy vật nằm ở chỗ, nếu thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung áp dụng một cách chủ quan tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái niệm, thì phép biện chứng duy vật phản ánh sự vận động, phát triển vĩnh viễn của thế giới, sự phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó. Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô tan vỡ, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào khủng hoảng và thoái trào, một số nước tư bản lại có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, lối xem xét phiến diện, một chiều sẽ làm người ta dễ hoang mang dao động, phủ nhận sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Rõ ràng nguyên tắc toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn đều, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật, hiện tượng, mà đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng đó. Từ những phân tích trên cho thấy, lôgíc của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật, hiện tượng sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn, cơ bản là đi từ quan niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó, và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật, hiện tượng.
Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra quan điểm đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết. Trước đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, trên cơ sở phân tích toàn diện bản chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng ta chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam mà cách mạng phải giải quyết là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc xâm lược và bọn tay sai và mâu thuẫn giữa nhân dân, mà trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân với đế quốc xâm lược và bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cần tập trung lực lượng giải quyết, sau đó giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó, cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn vẹn. Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực tiễn gần hai mươi năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của những quan điểm trên.
Trong hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Khoa học tự nhiên rất cần đến quan điểm toàn diện, bởi việc nghiên cứu trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải trong mối liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có những sự vật, hiện tượng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực xã hội, nguyên tắc toàn diện đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể hiểu được một hiện tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên hệ, những sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác. Trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cách mạng Việt Nam hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ tác động, sẽ không đánh giá đúng tình hình và nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể và do vậy không thấy hết những khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
editNguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng nhất trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tự vận động, phát triển của nó. Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Theo triết học Mác-Lênin, lịch sử là bản thân hiện thực khách quan, tồn tại độc lập với ý thức của con người. Phạm trù “cái lịch sử” phản ánh tính chất biến đổi về mặt lịch sử của thế giới khách quan. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, lịch sử với vật chất không đồng nhất; vật chất biểu hiện rất phức tạp, nhiều mặt, muôn vẻ, còn mỗi phạm trù của phép biện chứng duy vật chỉ phản ánh một mặt, một khía cạnh nhất định của hệ thống chỉnh thể phong phú các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Phạm trù “cái lịch sử” biểu hiện quá trình lịch sử - cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hoá của các sự vật, hiện tượng, biểu hiện tính lịch sử, tính cụ thể, sự phát sinh, hình thành và các giai đoạn phát triển của nó, đồng thời “cái lịch sử” chỉ ra quá trình biến đổi, phát triển diễn ra thực tế của một sự vật, hiện tượng này hay của một sự vật, hiện tượng khác trong hiện thực khách quan với những bước quanh co, những ngẫu nhiên của nó. Tính lịch sử xuyên thấm trong tất cả các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và những bước quanh co của sự phát triển diễn ra trong những hoàn cảnh khác nhau theo một thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hoá trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với hoàn cảnh cụ thể, mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại. Yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử-cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đã được V.I.Lênin nêu rõ và cô đọng. Theo đó, phải “xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”[11]. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó[12]. Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được rằng, vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó. Bởi vậy, muốn nhận thức được sự vật, hiện tượng, phải xem xét nó trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hoá lẫn nhau trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với hoàn cảnh cụ thể, mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại; phải xem xét nó trong sự vận động, trong sự hình thành và phát triển, phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu đặc trưng, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thấy những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng; không chỉ yêu cầu nhận thấy những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được mối liên hệ khách quan quy định sự thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng; chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ, là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hoá của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hoá thành trạng thái khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó.
Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này nằm ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và nhiều vẻ của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó. Tuy sự kiện có vai trò rất quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử - cụ thể nói riêng và đối với các nguyên tắc khác nói chung, bởi “sự kiện là không khí của nhà khoa học”, nhưng nguyên tắc lịch sử - cụ thể không phải là sự kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện một cách đơn giản, mà là tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và sự phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng để tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng không nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác, sự liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức, biểu hiện đặc thù của mối liên hệ phổ biến. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, phải nhận thức sự vật, hiện tượng với đầy đủ các mối liên hệ trong sự tồn tại khách quan vốn có của nó, vị trí vai trò của từng mối liên hệ trong sự quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong hoàn cảnh lịch sử này, sự vật, hiện tượng chịu sự tác động của các mối liên hệ này, sang thời điểm lịch sử khác sự vật, hiện tượng lại chịu sự tác động chi phối của các mối liên hệ khác.
Khái quát từ góc độ lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả hoặc ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến. Đến thời kỳ, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, thì quan điểm đó được V.I.Lênin thay thế bằng quan điểm cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể đi đến thắng lợi cuối cùng ở tất cả các nước mà chỉ có thể thắng lợi trước tiên ở một hoặc vài nước, ở khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội và ngày nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng đề ra những nhiệm vụ chiến lược cụ thể, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Để cho triết học Mác-Lênin thực sự là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trước hết phải tôn trọng sự tồn tại khách quan của sự vật hiện tượng. Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là phải thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hoá tính cụ thể, không thấy sự vật trong quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
editNguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng nhất của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Theo đó, phát triển là một phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chúng ta phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra được và biết cách giải quyết mâu thuẫn; phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp với quy luật vận động và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.
Khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong sự vận động, phát triển; phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của nó; phải tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn. Để xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển, để phát hiện ra các quy luật quy định sự chuyển hoá về chất của sự vật, hiện tượng, để xem xét sự vật, hiện tượng trong giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác, cần phải chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong chính sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những mặt, những yếu tố có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và mối liên hệ và tác động qua lại giữa chúng quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. “Sự phân đôi cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó ... đó là thực chất ... của phép biện chứng”[13]. Điều quan trọng là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập; phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa những khuynh hướng ấy. Theo V.I.Lênin, “Điều kiện của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong sự “tự vận động” của chúng, trong sự phát triển tự phát của chúng, trong đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng với tính cách là sự thống nhất của các mặt đối lập”[14]. Quan điểm xem xét sự vật, hiện tượng trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập; phát hiện những khuynh hướng mâu thuẫn bên trong, vốn có và sự đấu tranh giữa những khuynh hướng ấy có vai trò quan trọng không những trong việc nhận thức sự vật, hiện tượng với tính cách là đối tượng nhận thức đang vận động, phát triển, mà còn có vai trò quan trọng trong việc giải thích toàn bộ sự đa dạng của các thuộc tính khác và đối lập nhau vốn có trong các trạng thái khác nhau về chất của chúng; có vai trò quan trọng khi chỉ ra những chuyển hoá từ trạng thái về chất này sang trạng thái về chất khác và sang mặt đối lập với nó; có vai trò quan trọng trong khi chỉ ra mối liên hệ qua lại tất yếu giữa các sự vật, hiện tượng. Sau khi nhận thức được sự thống nhất giữa các mặt đối lập và làm rõ những mối liên hệ khác giữa chúng, chỉ ra sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự triển khai mâu thuẫn được thực hiện thông qua sự thâm nhập lẫn nhau giữa các mặt đối lập, thì có thể nhận thức được rằng, giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập được thực hiện thông qua việc thiết lập hình thức thống nhất mới, cao hơn giữa chúng. Như vậy, nguyên tắc phát triển chỉ rõ các mối liên hệ, nguồn gốc, khuynh hướng vận động, biến đổi và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu. Vận dụng nguyên tắc phát triển nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng và giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.
Trước đổi mới (1986), Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự khái quát đó lại chưa phản ánh thật đầy đủ và chi tiết những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thế giới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về mâu thuẫn, đồng thời nhận thức và giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó, bởi tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta về thực chất là giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta xác định cụ thể các loại mâu thuẫn trong những chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ, đó là, mâu thuẫn giữa thực trạng kinh tế-xã hội kém phát triển với yêu cầu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh; mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta vươn tới mục tiêu đó; mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan với yếu tố khách quan trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xác định mâu thuẫn, Đảng ta cũng đề ra các phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Việc giải quyết những mâu thuẫn xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, nhưng phương diện khách quan của mâu thuẫn quy định nội dung phương pháp giải quyết những mâu thuẫn đó. Do vậy, muốn giải quyết những mâu thuẫn xã hội, chúng ta phải căn cứ vào bản chất, trạng thái (đã chín muồi hay chưa) của mâu thuẫn; phải căn cứ vào điều kiện chủ quan và khách quan; trong và ngoài nước; phải tính đến thời điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương pháp giải quyết thích hợp. Vận dụng sáng tạo một trong những phương pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa hết sức quan trọng mà V.I.Lênin đã chỉ ra trong Chính sách kinh tế mới là "kết hợp các mặt đối lập một cách có nguyên tắc". Cụ thể, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường với sự quản lý có kế hoạch kinh tế - xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; kết hợp nhiều thành phần kinh tế trong một cơ cấu kinh tế hỗn hợp nhưng thống nhất; vừa đấu tranh, vừa hợp tác để phát huy mọi tiềm năng, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân và từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới; sử dụng các hình thức kinh tế quá độ như, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh v.v.
Cùng với việc xác định mâu thuẫn, đề ra các phương pháp giải quyết mâu thuẫn, Đảng ta cũng xác định động lực của công cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về nội lực, động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng ta lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và các nguồn lực của các thành phần kinh tế. Đây là động lực trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi mới. Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế. Đây là các nguồn lực căn bản cho sự phát triển của đất nước. Chúng ta cần ra sức tranh thủ những thành tựu khoa học, công nghệ, lực lượng sản xuất, văn minh vật chất và văn minh tinh thần của nhân loại đã đạt được từ trước tới nay; hợp tác có hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức và các doanh nghiệp trên thế giới để phát triển đất nước. Nội lực và ngoại lực tạo thành một tổng hợp lực to lớn, đủ sức mạnh để đưa đất nước tiến lên. Muốn vậy, chúng ta phải thực hiện được điểm mấu chốt là hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Trong thế giới hôm nay, xu hướng hợp tác và cạnh tranh đang từng bước thay thế xu hướng xung đột và đối đầu. Khác hẳn trước đây, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành nhu cầu tự thân bên trong đối với nền kinh tế nông nghiệp vốn mang đậm tính chất khép kín, tự túc, tự cấp của Việt Nam. "Một mặt, tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế theo một phương thức mới. Mặt khác, tình hình thế giới và trong nước tạo ra các cơ hội và điều kiện để sự thay đổi đó diễn ra thuận lợi"[15]. Nhưng chính tình hình càng phức tạp, lại càng đòi hỏi chúng ta phải nắm vững phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do phủ định biện chứng quy định. Theo V.I.Lênin, để có tri thức đúng đắn, “bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”[16], phải phát hiện các xu hướng biến đổi và chuyển hoá của nó. Đối với sự vật, hiện tượng cụ thể, ở mỗi thời điểm cụ thể “thì ta không thể lập tức thấy rõ ngay điều ấy”, bởi không phải lúc nào các khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng cũng bộc lộ đầy đủ. Trong những điều kiện khác nhau, sự vật, hiện tượng biểu hiện các khuynh hướng biến đổi và phát triển khác nhau. Khi được bổ sung bằng những điều kiện mới, có thể xuất hiện những khuynh hướng phát triển mới của sự vật, hiện tượng. Do đó, không thể nhận thức được các khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng ngay một lúc. Song, với phương pháp tư duy khoa học, con người có thể khái quát, làm rõ khuynh hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
Phủ định biện chứng được quy định bởi sự phát triển trái ngược nhau của các mặt, các yếu tố đối lập trong sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng không chỉ loại trừ, mà còn giữ lại những thuộc tính của các mặt, các yếu tố của sự vật, hiện tượng bị phủ định còn thích hợp với trình độ phát triển mới, tức là, phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại trừ và bảo tồn, giữa phủ định với khẳng định, là hình thức liên hệ giữa trình độ phát triển thấp với trình độ phát triển cao hơn. “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng, ... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là không có một sự do dự nào, không có một sự chiết trung nào”[17]. Phủ định biện chứng được thực hiện do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập vốn có của sự vật, hiện tượng, là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn. Trong quá trình phủ định, sự vật, hiện tượng này mất đi nhường chỗ cho sự vật, hiện tượng khác và điều đó cũng có nghĩa là, sự vật, hiện tượng chuyển từ giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác, diễn ra phù hợp với quy luật khách quan. Như vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng là một quá trình biện chứng. Phủ định biện chứng có vai trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhất là đối với sự phát triển của các lý thuyết khoa học. Khi soạn thảo ra lý thuyết khoa học mới, phải chỉ ra được sự đồng nhất, sự khác biệt, phải lấy được những luận điểm của lý thuyết khoa học hiện có đã được thực tiễn khẳng định và tìm cho chúng những vị trí tương xứng trong lý thuyết khoa học mới. Vận dụng nguyên tắc phát triển vào quá trình nhận thức cũng đòi hỏi phải thấy được tính chất quanh co, đôi khi thụt lùi của quá trình phát triển là hiện tượng phổ biến. Có như vậy, mới tránh được bi quan, dao động khi tiến trình cách mạng nói chung, sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như của mỗi cá nhân nói riêng, gặp khó khăn, trắc trở và cũng phải nhận thức được rằng, sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp với quy luật vận động và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.
Mối liên hệ giữa các nguyên tắc phương pháp luận chung của phép biện chứng duy vật
Trong một số giáo trình triết học Mác-Lênin, cách phân loại, xây dựng và số lượng v.v các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật có khác nhau. Tuy nhiên, về tổng thể, các giáo trình đó đều thống nhất nêu các nguyên tắc phương pháp luận chung nhất của phép biện chứng duy vật là nguyên tắc khách quan; nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn; nguyên tắc toàn diện; nguyên tắc lịch sử - cụ thể; nguyên tắc phát triển.
Các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là những luận điểm gồm những yêu cầu nhất định, định hướng con người trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cơ sở chung của các nguyên tắc phương pháp luận là cách giải quyết duy vật, biện chứng mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại. Sự thống nhất giữa các nguyên tắc phương pháp luận là chúng đều được rút ra từ những nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật, phản ánh sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự khác biệt giữa chúng là mỗi nguyên tắc phương pháp luận đều được rút ra từ sự phản ánh từng bộ phận của hiện thực trong dạng một yêu cầu (chuẩn mực điều tiết) nhất định. Mỗi một nguyên tắc có thể được xây dựng trên cơ sở không phải của một, mà có thể của vài quy luật, nên khi vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật, điều quan trọng nhất là phải nhận thức được chúng trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong mối liên hệ của chúng ở các giai đoạn phát triển của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Nắm vững phép biện chứng duy vật và mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật giúp chúng ta nhận thức được tính biện chứng của thế giới, tính tất yếu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải tuân theo những công thức có sẵn, bất biến, mà chúng phải được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn, nghĩa là các nước khác nhau đi lên chủ nghĩa xã hội theo những mô hình và phương pháp khác nhau. Con đường của cách mạng Việt Nam được Đảng ta xác định, “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[18] là con đường duy nhất đúng, thể hiện sự nhận thức và vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật của Đảng ta.
Tham khảo
edit- ↑ C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1994. t.20. tr.38.
- ↑ Hội đồng Trung ương chỉ đạo ..: Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1999. tr.378.
- ↑ A.Séptulin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1989. tr. 89-284.
- ↑ C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1994. t.39. tr.352.
- ↑ Từ điển bách khoa toàn thư về triết học, Nxb. Từ điển Xôviết, Mátxcơva. 1989. tr. 359. Tiếng Nga
- ↑ Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tr.32.
- ↑ Xem thêm: Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét (chương V); Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn (chương VII) của giáo trình này và A.Séptulin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 1989. tr. 89-284.
- ↑ V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1978. t.42. tr.364.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.29. tr.239.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1978. t.42. tr.364.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.39. tr.78.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.29. tr.364.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.29. tr.378.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.29. tr.379.
- ↑ Trần Đức Lương: Đổi mới: Sự lựa chọn cách mạng nhằm mục tiêu phát triển của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, số 4+5. Tháng 2. 2002.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb Tiến bộ. Mátxcơva. 1979. t.42. tr.238.
- ↑ V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.29. tr.245.
- ↑ Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001. tr. 83.